Đầu vụ sầu riêng năm nay, tại vùng sản xuất của Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Tân Lập Đông, xã Pơng Drang, tỉnh Đắk Lắk, các thương lái sầu riêng đang tìm kiếm mối hàng. Tuy nhiên, giá đặt mua tại vườn năm nay chưa bằng 80% giá đầu vụ năm ngoái.

Ông Nguyễn Hữu Chiến, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Tân Lập Đông, cho biết cả thương lái và nông dân đang cẩn trọng. Họ không vì sức mua của thị trường suy giảm hay vì giá bán thấp, mà vì vấn đề dư lượng chất Vàng O, Cadimi có thể khiến xuất khẩu lại bị gián đoạn như hồi đầu năm.

Ông Chiến chia sẻ: ‘Việc này phụ thuộc vào Cơ quan quản lý nhà nước phải kịp thời phát hiện nguyên nhân tồn dư chất này, từ đó triển khai cho hợp tác xã, rồi mới phổ biến đến người dân. Hiện tại, bà con không biết nó tồn tại ở giai đoạn nào. Rất bị động’.

Nỗi lo nghẽn xuất khẩu vì vấn đề dư lượng cũng đang đè nặng doanh nghiệp. Ông Vũ Quang Phúc, Giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Trung Bảo Tín, doanh nghiệp chuyên xuất khẩu nông sản ở tỉnh Đắk Lắk, cho biết công ty đang rất thận trọng trong khâu thu mua, bảo quản và kiểm định.

Trong một thập kỷ qua, ngành sầu riêng Việt Nam đã phát triển với tốc độ chưa từng có, từ 32.000ha năm 2015 lên gần 180.000ha vào năm 2024, trở thành nông sản xuất khẩu chiến lược, kim ngạch vượt 3 tỷ USD. Tỉnh Đắk Lắk vươn lên đứng đầu cả nước với gần 39.000ha và vụ này đã có 41.000ha sau khi có thêm diện tích sáp nhập từ địa bàn Phú Yên.

Tuy nhiên, tăng trưởng ‘nóng’ cũng đang tạo những ‘rạn nứt’ âm ỉ. Ông Vũ Phi Hùng, Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Nông sản Cao Nguyên (Sarita), lo lắng về chất lượng canh tác không đồng đều, nhà vườn sản xuất theo kinh nghiệm là chính, người trồng không được trang bị kiến thức về phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vật tư đầu vào.

Ông Hùng nói: ‘Thực trạng mở rộng vùng trồng hiện nay không đi đôi với năng lực canh tác thì rất mạo hiểm. Thứ hai là sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực không đồng nhất vì chúng ta không đặt chuẩn nào cho quy trình canh tác sầu riêng. Chúng ta cũng chưa có dữ liệu cập nhật từ các vùng trồng, cho nên việc tạo ra sầu riêng đúng quy chuẩn chất lượng là rất khó khăn’.
Ông Lê Văn Thành, Phó Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp sạch Krông Pắc, cho rằng vấn đề chất lượng hay dư lượng mới chỉ là phần ngọn dễ nhìn thấy ở ngành sầu riêng. Thực tế hoạt động của hợp tác xã cho thấy, căn cơ bất cập nằm ở sự kém minh bạch, thiếu chuẩn mực của các quy trình, quy phạm.
Mã số vùng trồng là lý lịch, là tài sản của người trồng. Việc cấp mã vùng phải trở thành chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể của từng cấp chính quyền, từ cấp xã trở lên. Không thể để tình trạng như hiện nay, chính quyền ngồi chờ người dân, doanh nghiệp đến xin cấp mã số vùng trồng. Một vùng nông nghiệp chủ lực thì chính quyền phải chủ động hỗ trợ người dân thực hiện việc này.
Thực tế cho thấy, những lô hàng bị trả lại do chất lượng và dư lượng đều phát sinh từ những điểm yếu về quy trình, quy chuẩn và minh bạch quản lý. Với loạt điểm yếu này, những tháng đầu năm 2025, xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang Trung Quốc giảm đến 74% kim ngạch, thị phần cũng sụt giảm mạnh từ hơn 42% xuống chỉ còn 28,2%, đe dọa mục tiêu phát triển bền vững.
Bài toán đặt ra không chỉ là kỹ thuật canh tác, mà là cơ chế quản lý chặt chẽ và sự đồng hành thực chất giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nông dân, để xây dựng một chuỗi giá trị sầu riêng thực thụ – nơi người trồng, doanh nghiệp và Nhà nước cùng giữ vị ngọt bền lâu.